Biện pháp Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học sinh Lớp 4

Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, giáo dục tiểu học là nền móng đầu tiên giúp con người tồn tại và phát triển, trong đó môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng vì nó hình thành và phát triển cho học sinh khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ, giúp trẻ tiếp thu các môn học khác.

Trong việc dạy tiếng Việt cho học sinh đọc và hiểu được nội dung bài thì phân môn Tập đọc có vai trò thật quan trọng. Phân môn Tập đọc giúp các em có kĩ năng nghe tốt, đọc thông, viết thạo, đọc đúng còn giúp các em hiểu được nội dung văn bản. Đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ được những cái hay, cái đẹp của nghệ thuật văn chương. Ngoài ra phân môn Tập đọc còn có tác dụng rất to lớn trong việc giáo dục tình cảm cho học sinh của lứa tuổi tiểu học. Tuy nhiên do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của các em chưa thể cảm nhận hết hoặc có cảm nhận cũng không thể diễn đạt tốt vì vốn ngôn ngữ của các em còn quá đơn giản, ít ỏi và chưa phong phú. Quá trình dạy Tập đọc, để các em đọc đúng đã là khó, để các em đọc diễn cảm được văn bản còn khó khăn gấp nhiều lần.

docx 17 trang Đình Bảo 22/08/2023 2580
Bạn đang xem tài liệu "Biện pháp Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxbien_phap_ren_ki_nang_doc_dien_cam_cac_bai_van_xuoi_cho_hoc.docx

Nội dung text: Biện pháp Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học sinh Lớp 4

  1. MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ 1 1. Cơ sở lí luận 1 2. Cơ sở thực tiễn 1 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2 III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ ÁP DỤNG 2 1. Đối tượng nghiên cứu 2 2. Phạm vi nghiên cứu 2 3. Thời gian thực hiện đề tài 2 B. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 3 I. KHẢO SÁT THỰC TẾ 3 III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHOA HỌC TIẾN HÀNH 4 1. Đọc mẫu 4 2. Rèn cho học sinh kĩ năng đọc đúng 4 2.1 Hướng dẫn học sinh đọc đúng âm, vần, dấu thanh. 4 2.1.1 Đọc đúng các âm dễ lẫn 4 2.1.2 Đọc đúng các vần 5 2.1.3 Đọc đúng dấu thanh 5 2.2 Rèn tốc độ đọc 6 2.3 Rèn kĩ năng đọc diễn cảm 7 2.3.1 Nhấn giọng các từ ngữ quan trọng trong câu 7 2.3.2 Biết thể hiện ngữ điệu (sự thay đổi về tốc độ, cao độ, cường độ, trường độ) phù hợp với từng loại câu (câu hỏi, câu kể, câu cảm, câu cầu khiến ). 7 2.3.3 Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời của nhân vật: 8 2.3.4 Phân tích cách ngắt nghỉ hơi 9 2.3.5 Hướng dẫn học sinh đọc hiểu 10 2.4 Sử dụng linh hoạt các hình thức học tập 12 2.5 Tổ chức trò chơi học tập 12 IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 14 1. So sánh đối chứng kết quả ban đầu 14 2. Kết luận khoa học 14 3. Khuyến nghị 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
  2. Như vậy, việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh là một việc làm không đơn giản và dễ dàng, đòi hỏi người giáo viên phải có những biện pháp cụ thể để áp dụng thì mới nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy Tập đọc. Khi vào thực tế giảng dạy thì phần lớn học sinh còn lúng túng, gặp nhiều khó khăn. Hầu như các em chỉ đọc đúng, tức là dùng cơ quan thị giác để chuyển các kí hiệu chữ viết trong văn bản thành dòng âm thanh ngôn ngữ. Số em đọc diễn cảm đạt yêu cầu còn có phần hạn chế. Mà đọc diễn cảm hạn chế tức là hạn chế năng lực cảm thụ văn học của các em. Điều này làm tôi trăn trở, lo lắng. Xuất phát từ thực tiễn và kết hợp với suy nghĩ “làm thế nào để các em đọc diễn cảm được tốt, giúp các em say mê, phấn khởi học tốt phân môn Tập đọc (cũng như các phân môn khác của môn Tiếng Việt) và các môn học khác”, tôi đã quyết định chọn đề tài “Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học sinh lớp 4” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn dùng tri thức đã học và kinh nghiệm giảng dạy của bản thân để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Tập đọc. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Nghiên cứu đề tài nhằm giúp học sinh lớp 4 có kĩ năng đọc diễn cảm đối với các loại hình văn bản nghệ thuật, các bài văn xuôi giúp học sinh có khả năng hiểu - cảm nhận nội dung và giá trị của bài Tập đọc một cách sâu hơn. Mặt khác, tạo cơ sở để các em học tốt hơn ở các lớp trên và tạo điều kiện thuận lợi để các em có thể vận dụng vào thực tế cuộc sống. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ ÁP DỤNG 1. Đối tượng nghiên cứu “Rèn kĩ năng đọc diễn cảm các bài văn xuôi cho học sinh lớp 4” 2. Phạm vi nghiên cứu Học sinh lớp 4 - Trường Tiểu học 3. Thời gian thực hiện đề tài Năm học 2019 - 2020 2/15
  3. - Trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn ít chú ý tới khâu luyện đọc cho học sinh mà chủ yếu đi sâu vào bài giảng. Hoặc cũng có những giáo viên đã chú ý đến khâu luyện đọc cho học sinh nhưng mới dừng lại ở mức độ luyện đọc trôi chảy, đọc đúng mà chưa chú ý đến luyện đọc diễn cảm. III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHOA HỌC TIẾN HÀNH 1. Đọc mẫu Việc đọc mẫu của giáo viên có ảnh hưởng lớn đối với học sinh, sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn những khía cạnh tinh tế, những thái độ, tình cảm của tác giả đối với các nhân vật trong tác phẩm. Đọc mẫu là biện pháp không thể thiếu để hình thành cách đọc diễn cảm cho học sinh. Theo tôi, giọng đọc của giáo viên là hết sức quan trọng. Giáo viên đọc diễn cảm toàn bài giúp học sinh định hướng được cách đọc. Không những thế còn lôi cuốn, hấp dẫn, gây hứng thú học tập cho học sinh. Tôi thấy, khi giáo viên đọc mẫu, các em rất chăm chú lắng nghe, coi giọng đọc của cô lúc dó như là “thần tượng” để các em bắt chước theo, học tập theo. Muốn đọc mẫu được hay, giọng đọc truyền cảm, giáo viên phải chuẩn bị bài chu đáo trước khi lên lớp. Giáo viên phải tự luyện đọc và sửa giọng sao cho phù hợp với bài đọc. 2. Rèn cho học sinh kĩ năng đọc đúng Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi; không đọc thừa, không đọc sót. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn, nghĩa là đọc đúng chính âm. Ngay từ đầu năm học, tôi nhận thấy rằng việc rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh là một điều không thể thiếu. Điều đó cũng giống như để thực hiện đúng phép tính nhân (x), chia (:) trong toán học thì học sinh phải thuộc bảng cửu chương vậy. Nên bắt đầu từ khi nhận lớp, tôi đã dặn các em về nhà đọc trước những bài văn, bài thơ trong sách Tiếng Việt 4 (vì qua 3 tháng nghỉ hè, việc luyện đọc của các em nhìn chung còn hạn chế). Giờ truy bài, các bàn trưởng, tổ trưởng có nhiệm vụ kiểm tra các bạn trong bàn mình. Tôi hướng dẫn học sinh đọc tốt hơn kèm cặp, giúp đỡ những học sinh đọc yếu. Nếu học sinh nào đọc chưa tốt (đọc ngắc ngứ, đọc sai) thì các tổ trưởng ghi tên các bạn đó và báo cáo với giáo viên chủ nhiệm để giáo kịp thời có biện pháp giúp đỡ. Trong giờ Tập đọc, tôi thường xuyên chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc đúng ở phần luyện đọc, cụ thể là: 2.1 Hướng dẫn học sinh đọc đúng âm, vần, dấu thanh. 2.1.1 Đọc đúng các âm dễ lẫn Đọc đúng là phát âm đúng hệ thống ngữ âm chuẩn. Nói cách khác là phải đọc đúng chính âm (không đọc theo cách phát âm của địa phương, mà cách phát âm có sự sai lệch so với âm chuẩn). Phát âm đúng tiếng Việt là yêu cầu cần 4/15
  4. Học sinh tiểu học vẫn còn có em chưa phát âm đúng, đọc đúng dấu thanh . Các em còn phát âm sai ở dấu thanh như: thanh ngã (~) phát thành thanh sắc (') như tiếng “mỡ” thành “mớ” là sai nghĩa của câu. Chính vì thế cần rèn cho các em đọc đúng dấu thanh trong các bài tập đọc như sau: Giáo viên đưa ra các tiếng mà có dấu thanh hay lẫn. Giáo viên gọi một số học sinh đọc. Học sinh khác nhận xét bạn đọc đúng dấu thanh chưa. Nếu vẫn còn học sinh đọc chưa đúng thì giáo viên đọc mẫu và phân tích cho học sinh. + Ví dụ: Khi dạy bài Chị em tôi (tập I) Trong bài các một số từ, chẳng hạn như: “tặc lưỡi” không đọc là “tặc lưới”, “giận dữ” không đọc là “giận dứ”, “dũng cảm” không đọc là “dúng cảm” 2.2 Rèn tốc độ đọc Trên cơ sở học sinh đã làm được yêu cầu phát âm đúng, giáo viên sẽ chuyển sang yêu cầu đọc đúng tốc độ, tức là với một khoảng thời gian nhất định cần phải đạt được một dung lượng theo quy định. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc với tốc độ vừa phải, dễ nghe và phù hợp với nội dung của văn bản. Để giúp học sinh đọc đúng tốc độ, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh: Biết ngồi đọc với tư thế thoải mái cũng như biết giữ khoảng cách trung bình giữa mắt và sách theo đúng quy định chung của việc đọc (khoảng 25 - 30 cm). Trước khi đọc được thành tiếng, học sinh cần đọc thầm tất cả các câu chữ trong bài cần đọc. Việc điều chỉnh tốc độ đọc là cần thiết. Với những em đọc quá tốc độ bình thường, giáo viên nên đọc mẫu để các em có thể ước lượng và điều chỉnh tốc độ đọc. Cũng có thể cho các em đọc nối tiếp nhau: em có tốc độ đọc nhanh sẽ được đọc tiếp nối với các em có tốc độ trung bình. Với những em đọc chậm so với tốc độ bình thường, giáo viên cũng có thể đọc mẫu để các em tự điều chỉnh tăng tốc độ lên hoặc cho các em đọc chậm đọc tiếp nối với những em có tốc độ đọc vừa phải. Cách tiến hành như vậy có thể giúp các em tự điều chỉnh được tốc độ đọc của mình. Tùy từng văn bản, tùy từng bài mà cần có tốc độ đọc cho phù hợp. Nhưng giáo viên cần định hướng cách đọc chung, đó là không đọc liến thoắng, đọc nhanh quá. Vì đọc như thế sẽ dễ bỏ sót từ hoặc sẽ vấp (đọc ngắc ngứ) khi gặp những tiếng có vần khó đọc. 6/15
  5. “Chao ôi! Cảnh nghèo đói đã gặm nát con người đau khổ kia thành xấu xí biết nhường nào!” thì đọc như một lời than. “Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.”- đọc như một lời cảm ơn chân thành, xúc động. Để thực hiện được biện pháp này đòi hỏi giáo viên phải làm thường xuyên đối với văn bản thể hiện các kiểu câu như trên. 2.3.3 Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời của nhân vật: Biện pháp này nhằm giúp học sinh đọc thể hiện sự phân biệt giữa lời kể của tác giả với lời nhân vật trong tác phẩm. Đọc giọng lời kể của tác giả chính là giọng đọc chung của bài. Còn tùy từng nhân vật mà thái độ thể hiện qua giọng đọc lại khác nhau. + Ví dụ: Bài Những hạt thóc giống. Giáo viên cần định hướng cho học sinh: đọc diễn cảm với giọng chậm rãi. \ Còn lời cậu bé Chôm tâu vua thì ngây thơ, lo lắng: “Tâu Bệ hạ! Con không làm sao cho thóc nảy mầm được” \ Lời nhà vua: * Khi thì ôn tồn: “Trước khi phát thóc giống, ta đã cho luộc kĩ rồi. Lẽ nào thóc ấy còn mọc được? Những xe thóc đầy ắp kia đâu phải thu được từ thóc giống của ta!”. * Khi thì dõng dạc (khen ngợi Chôm): “Trung thực là đức tính quý nhất của con người. Ta sẽ truyền ngôi cho chú bé trung thực và dũng cảm này.”. Ngoài ra, có những tác phẩm cần phải thể hiện sự phân biệt lời của các nhân vật sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và tính cách của từng nhân vật (người già, trẻ em, người tốt, kẻ xấu ) Đối với những bài cần thể hiện nhiều giọng đọc theo các kiểu câu, để tránh học sinh đọc lên xuống giọng tùy tiện, giáo viên phải hướng dẫn thật tốt khái niệm các kiểu câu và cách đọc các kiểu câu: - Câu kể (ở cuối câu có dấu chấm): khi đọc thường phải xuống giọng ở cuối câu. - Câu hỏi ( ở cuối câu có dấu chấm hỏi): khi đọc phải lên giọng ở cuối câu. - Câu cảm, câu khiến (ở cuối câu có dấu chấm than) khi đọc phải lên giọng ở cuối câu. - Câu kể có dấu chấm lửng khi đọc phải kéo dài giọng. 8/15
  6. 2.3.5 Hướng dẫn học sinh đọc hiểu Việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm chỉ được tiến hành khi học sinh đã hiểu thấu đáo bài đọc, tức là làm tốt khâu đọc hiểu. Đọc diễn cảm đòi hỏi học sinh phải nắm chắc nội dung từng đoạn, từng bài; nắm được tâm tình và lời nói của từng nhân vật để diễn tả cho đúng tinh thần của câu văn, đoạn văn, bài văn. Muốn đọc diễn cảm tốt phải hiểu kĩ nội dung của bài tập đọc và phải truyền đạt tốt sự hiểu biết của mình tới người nghe. Chính vì thế để rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh, tôi đã chú ý rèn kỹ năng đọc hiểu bằng các biện pháp sau: * Giảng từ và khai thác nghệ thuật Trong bài tập đọc thường có nhiều từ cần giải nghĩa. Theo tôi, có thể chia ra làm 3 loại sau: từ khó (có thể là từ địa phương, từ Hán Việt, danh từ riêng được giải nghĩa ở phần chú giải), từ chủ đề (những từ làm toát lên chủ đề), từ trung tâm (đây là những từ có “sức nặng”, giáo viên cần khai thác để làm toát lên nội dung bài đọc). Trong thực tế, nhiều khi từ khó cũng là từ chủ đề hoặc từ trung tâm. Để giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, tôi đã sử dụng các phương pháp trực quan (thể hiện bằng giọng nói, giọng đọc, nét mặt, ánh mắt, dáng điệu, động tác, hình mẫu, tranh ảnh, vật thực ) + Ví dụ: Trong bài Người ăn xin, khi giảng từ “nhìn chằm chằm”, giáo viên có thể dùng ánh mắt nhìn một cách chăm chú, lâu không chớp và có ý dò hỏi. Khi gặp những từ trừu tượng thì khó dùng phương pháp trực quan mà phải dùng phương pháp định nghĩa, giải thích. + Ví dụ: \ Quyến rũ có nghĩa là có một sức lôi cuốn mạnh mẽ làm cho quyến luyến không muốn rời xa. \ Mãnh liệt: ý nói thôi thúc, day dứt, dai dẳng và mạnh mẽ. Khi giảng về từ lạnh tê tái, giáo viên nêu lên một loạt các khái niệm lạnh lẽo, lạnh buốt, lạnh giá để học sinh thấy được lạnh tê tái ở mức độ cao hơn. Mặt khác, cho học sinh tìm từ trái nghĩa với từ lạnh tê tái là nóng hầm hập để học sinh càng hiểu rõ hơn về ý nghĩa của từ này. 10/15