Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học Ngữ văn Lớp 9
Trong cuộc sống hàng ngày, đối với mỗi người chúng ta, ai cũng có rất nhiều điều cần ghi nhớ và suy nghĩ. Bất kể 1 hình ảnh nào bạn vô tình nhìn thấy hoặc một âm thanh, một giọng hát nào đó bạn nghe thấy, chúng đều được não bộ của ta ghi nhận và lưu trữ trong đó. Ngày qua ngày, khi chúng ta ngày càng tiếp thu thật nhiều thông tin thì não của chúng ta sẽ trở nên một mớ hỗn độn. Dần dần, những thông tin mới ghi nhận hoặc những thông tin có ấn tượng đặc biệt với chúng ta sẽ lấn át những thông tin mờ nhạt, khiến chúng ta thường xuyên xảy ra tình trạng nhìn một người hay một vật nào đó rất quen mà không thể nhớ ra được. Và vô số nguồn tài liệu học tập, nghiên cứu như: sách, tạp chí, báo, internet,…rất phong phú. Thêm vào đó là sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ thông tin, chúng ta hàng ngày đang tiếp xúc với nguồn kiến thức mênh mông của thế giới trong mọi lĩnh vực. Để có thể thu nhận kiến thức khổng lồ đó một cách dễ nhất, chính xác nhất, đòi hỏi phải có một phương pháp tư duy khoa học.
Các em học sinh cũng vậy, mỗi ngày, các em đều phải đối mặt với vô số lượng kiến thức mới từ toán, lý, hóa,… đến các môn học thuộc như lịch sử, địa lý,ngữ văn…. Làm sao để có thể ghi nhớ toàn bộ kiến thức một cách rõ ràng, chuẩn xác mà không tốn quá nhiều thời gian cho việc ngồi học thuộc từng câu, từng chữ nhưng lại có thể khái quát được toàn bộ kiến thức và ghi nhớ lâu? Đó là vấn đề đặt ra cho những người làm công tác dạy học. Trong công tác dạy học nói chung và dạy học ngữ văn nói riêng, ngoài vấn đề truyền đạt kiến thức cho học sinh, giáo viên cần hướng học sinh đến một phương pháp học tập tích cực và chủ động để lĩnh hội tri thức, giáo viên cũng cần có phương pháp nghiên cứu để luôn cập nhật kịp thời tri thức của thế giới. Với “biển thông tin” như thế, để tiếp cận tốt cần có phương pháp giúp hệ thống lại những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức, sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo…
Trong mấy năm gần đây, việc dạy học ngữ văn trong nhà trường phổ thông đã có nhiều chuyển biến; thể hiện rõ nhất là yêu cầu chuyển từ dạy học nội dung sang dạy học phát triển năng lực. Theo hướng này, việc dạy học Ngữ văn trước mắt tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá. Vẫn là những nội dung dạy học cũ, vẫn là những tác phẩm cũ trong sách giáo khoa hiện hành, nhưng cần hướng dẫn học sinh đọc hiểu, phân tích, đánh giá theo cách thức mới. Từ việc thầy cô chủ yếu giảng văn, nói cho học sinh nghe cái hay, cái đẹp của tác phẩm theo nhận thức và cảm thụ của mình chuyển sang biết tổ chức hướng dẫn học sinh biết tự cảm thụ, tự tìm hiểu cái hay, cái đẹp của tác phẩm bằng sự cảm nhận của các em. Tư việc áp đặt những khuôn mẫu trong việc viết bài chuyển sang dạy cho học sinh biết cách thức tạo lập một văn bản đúng quy cách, có nội dung và biết diễn đạt , trình bày khoa học. Từ việc coi nhẹ nói và nghe chuyển sang yêu cầu rèn luyện cho học sinh biết nói tự tin, rõ ràng, mạch lạc, biết nghe chính xác, phản hồi linh hoạt, phù hợp…Những yêu cầu mới này thực sự là thách thức rất lớn đối với tất cả mọi giáo viên.
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_su_dung.docx
Nội dung text: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học Ngữ văn Lớp 9
- Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG 1 PPDH Phương pháp dạy học 2 GV Giáo viên 3 HS Học sinh 4 SĐTD Sơ đồ tư duy 5 THCS Trung học cơ sở 1/18
- Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Trong cuộc sống hàng ngày, đối với mỗi người chúng ta, ai cũng có rất nhiều điều cần ghi nhớ và suy nghĩ. Bất kể 1 hình ảnh nào bạn vô tình nhìn thấy hoặc một âm thanh, một giọng hát nào đó bạn nghe thấy, chúng đều được não bộ của ta ghi nhận và lưu trữ trong đó. Ngày qua ngày, khi chúng ta ngày càng tiếp thu thật nhiều thông tin thì não của chúng ta sẽ trở nên một mớ hỗn độn. Dần dần, những thông tin mới ghi nhận hoặc những thông tin có ấn tượng đặc biệt với chúng ta sẽ lấn át những thông tin mờ nhạt, khiến chúng ta thường xuyên xảy ra tình trạng nhìn một người hay một vật nào đó rất quen mà không thể nhớ ra được. Và vô số nguồn tài liệu học tập, nghiên cứu như: sách, tạp chí, báo, internet, rất phong phú. Thêm vào đó là sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ thông tin, chúng ta hàng ngày đang tiếp xúc với nguồn kiến thức mênh mông của thế giới trong mọi lĩnh vực. Để có thể thu nhận kiến thức khổng lồ đó một cách dễ nhất, chính xác nhất, đòi hỏi phải có một phương pháp tư duy khoa học. Các em học sinh cũng vậy, mỗi ngày, các em đều phải đối mặt với vô số lượng kiến thức mới từ toán, lý, hóa, đến các môn học thuộc như lịch sử, địa lý,ngữ văn . Làm sao để có thể ghi nhớ toàn bộ kiến thức một cách rõ ràng, chuẩn xác mà không tốn quá nhiều thời gian cho việc ngồi học thuộc từng câu, từng chữ nhưng lại có thể khái quát được toàn bộ kiến thức và ghi nhớ lâu? Đó là vấn đề đặt ra cho những người làm công tác dạy học. Trong công tác dạy học nói chung và dạy học ngữ văn nói riêng, ngoài vấn đề truyền đạt kiến thức cho học sinh, giáo viên cần hướng học sinh đến một phương pháp học tập tích cực và chủ động để lĩnh hội tri thức, giáo viên cũng cần có phương pháp nghiên cứu để luôn cập nhật kịp thời tri thức của thế giới. Với “biển thông tin” như thế, để tiếp cận tốt cần có phương pháp giúp hệ thống lại những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức, sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo Trong mấy năm gần đây, việc dạy học ngữ văn trong nhà trường phổ thông đã có nhiều chuyển biến; thể hiện rõ nhất là yêu cầu chuyển từ dạy học nội dung sang dạy học phát triển năng lực. Theo hướng này, việc dạy học Ngữ văn trước mắt tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá. Vẫn là những nội dung dạy học cũ, vẫn là những tác phẩm cũ trong sách giáo 3/18
- Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” sinh đặc biệt là trong dạy học ngữ văn, đó là điều băn khoăn, trăn trở của nhiều thầy cô. Là một giáo viên tâm huyết với nghề, đặc biệt với vai trò là tổ trưởng tổ chuyên môn, tôi đặc biệt quan tâm, đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện có bài bản, nhằm nâng cao hiệu quả dạy học cho bản thân và trao đổi thống nhất với đồng nghiệp tháo gỡ phần nào những khó khăn vướng mắc trong dạy học, đồng thời để phát huy tính tích cực học tập của HS, nâng cao chất lượng dạy học cho nhóm giáo viên Ngữ văn nhà trường, đặc biệt để đáp ứng yêu cầu đổi mới của chương trình và sách giáo khoa trong những năm tới đây. Đó chính là lý do chọn đề tài của tôi. 2. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu thực hiện ở Trường trong năm học : 2018-2019 và tiếp tục thực hiện năm học 2019-2020 Phạm vi: môn ngữ văn lớp 9 3. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực nghiệm tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau: - Nghiên cứu các phương pháp lý luận có liên quan đến đề tài; - Khảo sát thực trạng HS; - Phương pháp quan sát; - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục. 5/18
- Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” sinh, cung cấp một cái nhìn tổng quan về chủ đề mà không có thông tin thừa. Học sinh cũng được tiếp nhận tin một cách tổng quan và chính xác nhất phát huy khả năng nghe, nói, đọc, viết, chống chép văn mẫu rập khuôn, máy móc, không có tính sáng tạo, khuyến khích những suy nghĩ chân thực, cách trình bày sáng tạo của người học vì vậy mà hiệu quả của giờ dạy sẽ được tăng lên. *. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ Văn: Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả, biết liên hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn. Bởi vậy, rèn luyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong quá trình dạy học sẽ giúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện. Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm SĐTD (Mind Map). Tóm lại, việc sử dụng SĐTD sẽ giúp HS: 1. Tăng sự hứng thú trong học tập. 2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy, ngôn ngữ của các em. 3. Tiết kiệm rất nhiều thời gian. 4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể. 5. Ghi nhớ tốt hơn. 6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em. 2. Cơ sở thực tiễn - Đối với môn Ngữ Văn THCS( gồm 3 phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn) thì bản đồ tư duy giúp người dạy, người học xử lý tốt các văn bản tự sự, nghị luận, các bài Tiếng Việt, tổng kết chương Bản đồ tư duy giúp cho các bài văn trở lên khoa học, mạch lạc, dễ nhớ, dễ thuộc, các bài học trong phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn mang tính khái quát, hệ thống, khoa học, logic Trong quá trình dạy Ngữ văn, nếu giáo viên (GV) xây dựng và sử dụng sơ đồ tư duy một cách hợp lý và sáng tạo các bài dạy học; tổ chức cho HS tham gia 7/18
- Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN LỚP 9 TRONG TRƯỜNG THCS 1. Thực trạng dạy và học Ngữ Văn lớp 9 trong nhà trường phổ thông. Đối với môn Ngữ văn lớp 9, thời lượng là 5 tiết/tuần. Trong đó thường dành 2 tiết cho dạy học văn bản, 1 tiết tiếng việt và 2 tiết tập làm văn. Thực tế dạy học nhiều năm, tôi nhận thấy: với một giáo viên có chuyên môn sâu thì giờ dạy học văn sẽ rất lí thú, học sinh rất thích lắng nghe. Nhưng một điều trở ngại lớn đối với học sinh là : phải học lý thuyết dài, viết dài, nhiều em ghi chép mà không hiểu nội dung Tâm lí chung của học sinh là ngại học văn, ghi chép bài, viết bài làm văn Trong các tiết ôn tập cũng vậy. Trước đây, các tiết ôn tập tiếng việt hay ôn tập phần văn bản một số GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV hoặc của tài liệu, chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Đặc biệt trong những giờ ôn luyện ngữ văn ôn thi vào lớp 10, hầu hết các em phải ghi chép nhiều mà không thể thuộc từng câu chữ, đó cũng gây tâm lí chán nản trong giờ học Ngữ văn. Thực tế cho thấy có rất nhiều em học sinh học môn văn bằng nhiều cách như học thuộc lòng, học vẹt, học một cách máy móc không nắm được kiến thức trọng tâm và không nắm được sự kiện nổi bật trong tài liệu, từ đó không biết liên tưởng các kiến thức với nhau. Với nhiều em học tập rất chăm chỉ nhưng thành tích vẫn không tiến bộ, gây nên tâm lí chán nản, mệt mỏi dễ bỏ cuộc. Mặt khác, một số học sinh có phương pháp học không đúng đắn, khi nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy cần phải rèn luyện được thói quen sử dụng sơ đồ tư duy trong quá trình học tập để giúp các em có tính độc lập, sáng tạo, phát triển tư duy một cách sâu sắc. Về phía giáo viên, qua dự giờ thăm lớp trong tổ nhóm chuyên môn, tôi nhận thấy một số thầy cô đã đưa bản đồ tư duy vào việc dạy học Ngữ Văn . Song chưa có hiệu quả, chưa gây được hứng thú cho học sinh vì phương pháp còn mang tính áp đặt, khuôn mẫu, hình thức còn đơn điệu, chưa có tính thẩm mĩ, chưa linh hoạt, sáng tạo. Chính điều đó là một trong những yếu tố làm cho giờ học không thành công. 9/18
- Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỤ THỂ ĐỂ DẠY HỌC NGỮ VĂN SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY ĐẠT HIỆU QUẢ. 1. Trước hết giáo viên phải là người hiểu rõ vai trò của sơ đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học. Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép, sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. SĐTD- một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình hoạ giữa sự kết hợp giữa các từ ngữ, hình ảnh, màu sắc, đường nét phù hợp với cấu trúc hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Cơ chế hoạt động của bản đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng ( Các nhánh)- SĐTD là công cụ đồ hoạ nối các hình ảnh có liên hệ với nhau, vì vậy có thể sử dụng SĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hoá kiến thức sau mỗi chương là điều rất cần thiết SĐTD giúp học sinh học được phương pháp học tập chủ động, tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc HS vẽ SĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc ( xanh, đỏ, tím, vàng ), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong ), các em tự “ sáng tác” nên trên mỗi SĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và SĐTD do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác phẩm” của mình. SĐTD giúp HS ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm của SĐTD nên người thiết kế SĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng SĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả. 2. Sử dụng SĐTD để hỗ trợ trong quá trình dạy học: Trong quá trình dạy học, tôi sử dụng phương tiện này để hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau giờ học, hệ thống hóa kiến thức trong các tiết ôn tập, luyện thi 2-1. Dùng SĐTD để dạy bài mới: Trong dạy học văn, hình thành được ý tưởng là một vấn đề cực kì quan trong. Bởi bên cạnh việc nắm rõ các kiến thức cơ bản thì các ý tưởng sáng tạo luôn tạo nên chiều sâu và điểm độc đáo trong từng văn bản. Nếu như trong quá trình học tập trên lớp, giáo viên đưa ra một ý tưởng trung tâm hay còn gọi là từ khóa, học sinh dùng màu sắc, đường nét kết hợp với hình ảnh để phát triển thành những bản đồ tư duy khác nhau để thể hiện và đào 11/18