Báo cáo biện pháp Quy trình xây dựng bài tập thực nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn hoá học lớp 8
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới kinh tế, xã hội một cách toàn diện. Ngành giáo dục và đào tạo cũng không nằm ngoài dòng chảy đó. Nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của xã hội, giáo dục và đào tạo trong những năm gần đây đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Chống tiêu cực trong thi cử, chống bệnh thành tích trong giáo dục, được nhiều địa phương trong toàn quốc hưởng ứng. Sách giáo khoa được thay đổi theo hướng tích cực cả về nội dung lẫn hình thức. Đổi mới kiểm tra đánh giá là một yêu cầu cần thiết phải tiến hành khi thực hiện đổi mới phương pháp dạy học cũng như đổi mới giáo dục.
Đổi mới giáo dục cần đi từ tổng kết thực tiễn để phát huy ưu điểm, khắc phục các biểu hiện hạn chế, lạc hậu, yếu kém, trên cơ sở đó tiếp thu vận dụng các thành tựu hiện đại của khoa học giáo dục trong nước và quốc tế vào thực tiễn nước ta. Có thể nói, đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá là hai mặt thống nhất hữu cơ của quá trình dạy học, đổi mới phương pháp dạy học phải dựa trên kết quả đổi mới kiểm tra đánh giá và ngược lại đổi mới kiểm tra đánh giá để thúc đẩy và phát huy hiệu quả khi thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Việc đánh giá kết quả học tập, kiểm tra, thi cử của học sinh đã bắt đầu được thực hiện bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan ở nhiều môn học. Điều này giúp kiểm tra, đánh giá được kiến thức của học sinh một cách toàn diện, tránh học tủ, học vẹt. Qua đó, bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự giác, chủ động trong học tập.
File đính kèm:
- bao_cao_bien_phap_quy_trinh_xay_dung_bai_tap_thuc_nghiem_tro.docx
- Quy trình xây dựng bài tập thực nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn hoá học lớp 8.pdf
Nội dung text: Báo cáo biện pháp Quy trình xây dựng bài tập thực nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn hoá học lớp 8
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới kinh tế, xã hội một cách toàn diện. Ngành giáo dục và đào tạo cũng không nằm ngoài dòng chảy đó. Nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của xã hội, giáo dục và đào tạo trong những năm gần đây đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Chống tiêu cực trong thi cử, chống bệnh thành tích trong giáo dục, được nhiều địa phương trong toàn quốc hưởng ứng. Sách giáo khoa được thay đổi theo hướng tích cực cả về nội dung lẫn hình thức. Đổi mới kiểm tra đánh giá là một yêu cầu cần thiết phải tiến hành khi thực hiện đổi mới phương pháp dạy học cũng như đổi mới giáo dục. Đổi mới giáo dục cần đi từ tổng kết thực tiễn để phát huy ưu điểm, khắc phục các biểu hiện hạn chế, lạc hậu, yếu kém, trên cơ sở đó tiếp thu vận dụng các thành tựu hiện đại của khoa học giáo dục trong nước và quốc tế vào thực tiễn nước ta. Có thể nói, đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá là hai mặt thống nhất hữu cơ của quá trình dạy học, đổi mới phương pháp dạy học phải dựa trên kết quả đổi mới kiểm tra đánh giá và ngược lại đổi mới kiểm tra đánh giá để thúc đẩy và phát huy hiệu quả khi thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Việc đánh giá kết quả học tập, kiểm tra, thi cử của học sinh đã bắt đầu được thực hiện bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan ở nhiều môn học. Điều này giúp kiểm tra, đánh giá được kiến thức của học sinh một cách toàn diện, tránh học tủ, học vẹt. Qua đó, bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự giác, chủ động trong học tập. Hóa học là ngành khoa học thực nghiệm, có rất nhiều thí nghiệm lý thú, bổ ích. Trong quá trình học tập, thông qua các thí nghiệm, học sinh được củng cố mối liên hệ giữa lý thuyết với ứng dụng. Tuy nhiên, nhiều năm qua do nội dung sách giáo khoa còn nặng về lý thuyết và do điều kiện của từng trường còn khó khăn nên việc thực hiện các thí nghiệm còn nhiều hạn chế. Mặc dù sách giáo khoa mới (áp dụng từ năm 2004) đã có nhiều cải tiến đáng kể, nhiều thí nghiệm hóa học với mục đích nghiên cứu hoặc củng cố kiến thức được đưa ra. Tuy nhiên để khắc sâu những thí nghiệm trong bài học cần phải xây dựng một hệ thống các câu hỏi thực nghiệm. Đặc biệt với chương trình hóa học lớp 8, các em mới bắt đầu làm quen với các thí nghiệm hóa học, còn bỡ ngỡ với các thao tác tiến hành cũng như việc áp dụng các tính chất hóa học của các chất vào thí nghiệm. Điều này càng cần phải có một hệ thống các câu hỏi thực nghiệm giúp các em ghi sâu những thao tác thí nghiệm cũng như các liên hệ giữa lý thuyết và thực nghiệm. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc đổi mới và hoàn thiện phương pháp giảng dạy cũng như nhằm củng cố và giúp các em học sinh khắc sâu kiến thức môn học, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu của mình là: “Quy trình xây dựng bài tập thực nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn hoá học lớp 8”. 1/33
- CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC LOẠI CÂU HỎI, BÀI TẬP TRONG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN HOÁ HỌC THCS 1. Lý luận về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh THCS 1.1. Khái quát về kiểm tra đánh giá Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một hoạt động rất quan trọng trong quá trình giáo dục. Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh nhằm tạo cơ sở cho những điều chỉnh sư phạm của giáo viên, các giải pháp của các cấp quản lí giáo dục và cho bản thân học sinh, để học sinh đạt kết quả tốt hơn. Đánh giá kết quả học tập của học sinh cần sử dụng phối hợp nhiều công cụ, phương pháp và hình thức khác nhau. Đề kiểm tra là một trong những công cụ được dùng khá phổ biến để đánh giá kết quả học tập của học sinh. Những bài tập mà nhà giáo dục đưa ra nhằm mục đích kiểm tra kiến thức mà học sinh lĩnh hội được trong quá trình học tập thường sử dụng nhất là hình thức trắc nghiệm: 1.1.1. Khái niệm câu hỏi trắc nghiệm Theo GS Dương Thiệu Tống : “Trắc nghiệm là một loại dụng cụ đo lường khả năng của người học, ở bất cứ cấp học nào, bất cứ môn học nào, trong lĩnh vực khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội”. Theo GS Trần Bá Hoành : “Test có thể tạm dịch là phương pháp trắc nghiệm, là hình thức đặc biệt để thăm dò một số đặc điểm về năng lực, trí tuệ của học sinh (thông minh, trí nhớ, tưởng tượng, chú ý) hoặc để kiểm tra một số kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh thuộc một chương trình nhất định”. Hiện nay, người ta cho rằng trắc nghiệm là những câu hỏi, bài tập không phải lập luận, trình bày, diễn đạt, có các câu trả lời sẵn, yêu cầu học sinh suy nghĩ trong thời gian ngắn (từ 1 đến 2 phút) rồi dùng một ký hiệu đơn giản đã được quy ước sẵn để trả lời. 1.1.2. Chức năng của câu hỏi trắc nghiệm a) Với người dạy, sử dụng trắc nghiệm nhằm: - Cung cấp thông tin ngược chiều để điều chỉnh phương pháp nội dung cho phù hợp. - Khảo sát kết quả học tập của một số đông học sinh, có thể sử dụng lại bài khảo sát vào thời điểm khác. - Nắm bắt được trình độ của học sinh, từ đó đưa ra quyết định nên dạy những gì và dạy bắt đầu từ đâu. - Ngăn ngừa nạn học tủ, học vẹt và gian lận của học sinh. - Muốn có những điểm số đáng tin cậy, không phụ thuộc phần lớn vào chủ quan của người chấm bài. - Khuyến khích học sinh học đều, rèn luyện tính năng động, chủ động, sáng tạo trong học tập. - Chấm nhanh và có kết quả sớm. - Nâng cao hiệu quả giảng dạy b) Với người học, sử dụng trắc nghiệm nhằm: - Tự kiểm tra, đánh giá kiến thức, kỹ năng. 3/33
- - Số lượng câu hỏi nhiều, đủ cơ sở tin cậy, đủ cơ sở đánh giá chính xác trình độ học sinh thông qua kiểm tra. - Chấm bài nhanh và chính xác. Có thể dùng máy chấm với số lượng lớn. - Việc áp dụng công nghệ thông tin vào việc soạn thảo các bài kiểm tra, bài thi giúp hạn chế đến mức thấp nhất hiện tượng nhìn bài hay trao đổi bài. Nhược điểm: - Việc soạn câu hỏi đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. - Tốn kém trong việc soạn thảo, in ấn đề kiểm tra. - Hạn chế việc thể hiện năng lực diễn đạt, năng lực sáng tạo, khả năng lập luận của học sinh. - Không luyện tập được cho học sinh cách trình bày bài làm. - Có yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Phân loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan Trắc nghiệm khách quan là một công cụ đo lường tâm lí, đo lường giáo dục, nhằm đánh giá thành quả học tập, tuy không phải là công cụ đo lường duy nhất, song trắc nghiệm khách quan ngày càng tỏ rõ hiệu năng và càng trở nên đắc dụng trên thế giới. Tuy nhiên, trắc nghiệm khách quan chỉ thật sự phát huy tác dụng khi người sử dụng hoặc người soạn trắc nghiệm khách quan phân biệt được các hình thức câu trắc nghiệm khách quan khác nhau và sử dụng chúng một cách phù hợp. Câu trắc nghiệm đúng – sai (True False) Đây là loại câu được trình bày dưới dạng câu phát biểu và học sinh trả lời bằng cách lựa chọn một trong hai phương án “đúng” hoặc “sai”. Ưu điểm: là loại câu đơn giản thường dùng để trắc nghiệm kiến thức về những sự kiện hoặc khái niệm, vì vậy viết loại câu này tương đối dễ, ít phạm lỗi, mang tính khách quan khi chấm. Giáo viên có thể soạn đề thi và kiểm tra kiến thức trong thời gian ngắn. Nhược điểm: - Có độ phân cách (khả năng phân biệt học sinh giỏi và học sinh kém) thấp vì độ may rủi cao (50%). - Độ tin cậy thấp, dễ tạo điều kiện cho học sinh thuộc lòng hơn là hiểu. - Học sinh giỏi có thể không thỏa mãn khi buộc phải chọn “ đúng” hay “ sai” khi câu trắc nghiệm viết chưa kỹ càng. Câu trắc nghiệm ghép đôi (matching test) Đây là loại hình đặc biệt của loại câu nhiều lựa chọn, trong đó học sinh tìm cách ghép các câu trả lời ở trong cột này với câu chưa hoàn thành ở cột khác sao cho phù hợp. Số câu ghép đôi càng nhiều thì xác suất may rủi càng thấp, chất lượng trắc nghiệm càng cao. Ưu điểm: câu ghép đôi dễ viết, dễ dùng, loại này thích hợp với tuổi học sinh trung học cơ sở hơn. Có thể dùng loại câu này để đo các mức trí năng khác nhau. Nó đặc biệt hữu hiệu trong việc đánh giá khả năng nhận biết các hệ thức hay lập các mối tương quan. Nhược điểm: nếu danh sách mỗi cột dài thì học sinh mất nhiều thời gian đọc và tìm câu tương ứng để ghép đôi. Câu trắc nghiệm điền khuyết (filling test) 5/33
- lời hay hơn đáp án thì sẽ làm cho học sinh đó cảm thấy không thỏa mãn. - Các câu hỏi nhiều lựa chọn có thể không đo được khả năng phán đoán tinh vi, khả năng giải quyết vấn đề khéo léo, sáng tạo một cách hiệu nghiệm bằng loại câu trắc nghiệm tự luận soạn kỹ. Câu hỏi vẽ hình (drawing test) Học sinh trả lời trắc nghiệm bằng cách vẽ hình, sơ đồ hoặc bổ sung chi tiết vào hình, sơ đồ có sẵn. Học sinh dùng hình vẽ thay cho câu trả lời. Ưu điểm: - Học sinh không có cơ hội đoán mò mà phải nhớ ra, phải hiểu rõ bài học. - Thích hợp với các môn tự nhiên Nhược điểm: - Việc soạn khá tốn thời gian, đòi hỏi người soạn phải có khả năng vẽ. 1.2. Khái quát về câu hỏi, bài tập hoá học thực nghiệm 1.2.1. Khái niệm câu hỏi, bài tập hoá học thực nghiệm Bài tập hóa học là phương tiện chính và hết sức quan trọng dùng để rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức cho học sinh. Là nhiệm vụ học tập mà giáo viên đặt ra cho người học, buộc người học vận dụng các kiến thức, năng lực của mình để giải quyết các nhiệm vụ đó nhằm chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng một cách tích cực, hứng thú và sáng tạo. 1.2.2. Chức năng câu hỏi, bài tập thực nghiệm Bài tập hóa học thực nghiệm là những bài tập có nội dung liên quan đến thí nghiệm, giúp người học ghi nhớ được những hiện tượng thí nghiệm, các lưu ý, thao tác trong thí nghiệm thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập, bài tập hoá học thực nghiệm còn có các chức năng cho từng mục tiêu như: a) Về kiến thức - Là một trong những phương tiện hiệu nghiệm cơ bản nhất để dạy học sinh khắc sâu lý thuyết và các thao tác tiến hành thí nghiệm. - Đào sâu, mở rộng kiến thức đã học một cách sinh động, phong phú mà không làm nặng nề khối lượng kiến thức của học sinh. - Thông qua các bài tập thực nghiệm, học sinh hiểu kỹ hơn các khái niệm, tính chất hóa học, củng cố kiến thức một cách thường xuyên. b) Về kỹ năng - Củng cố thêm kĩ năng tiến hành thí nghiệm của học sinh. - Rèn luyện và phát triển năng lực nhận thức, năng lực phát hiện và giải thích các vấn đề nảy sinh từ thí nghiệm - Rèn luyện và phát triển các kỹ năng tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu c) Về thái độ - Rèn luyện tính kiên nhẫn, trung thực, chính xác, khoa học và sáng tạo, phong cách làm việc khoa học. - Giúp học sinh thấy rõ lợi ích của việc học môn hóa học, từ đó tạo động cơ học tập tích cực: kích thích trí tò mò, óc quan sát làm tăng hứng thú học tập môn hóa học và có thể giúp học sinh định hướng nghề nghiệp trong tương lai - Phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh và hình thành phương pháp học tập hợp lý. 7/33